ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
KỶ NIỆM 93 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM (03/02/1930 - 03/02/2023)
-----
I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI LÀ BƯỚC NGOẶT TO LỚN TRONG LỊCH
SỬ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Bối cảnh lịch sử ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1. Bối cảnh quốc tế
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do
cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế quốc thực hiện chính
sách: bên trong tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài gia tăng các
hoạt động xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của
chủ nghĩa đế quốc làm đời sống nhân dân lao động trên thế giới trở nên cùng
cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay
gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc
địa.
Năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa
Mác -Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới trong
lịch sử loài người; là ánh sáng soi đường cho các dân tộc bị áp bức đứng lên
đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời đã thúc đẩy
sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt
Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2. Bối cảnh trong nước
- Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và
từng bước thiết lập bộ máy thống trị, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến
thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc
nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”. Chính
sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị
thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà
Nguyễn, đó là một chính sách chuyên chế điển hình, chúng đàn áp đẫm máu các
phong trào và hành động yêu nước của người Việt Nam, mọi quyền tự do bị cấm.
Chúng chia rẽ ba nước Đông Dương, chia Việt Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ,
Nam Kỳ) và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng.
Về kinh tế, thực dân Pháp cấu kết với giai
cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc lột tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập
đồn điền; ra sức vơ vét tài nguyên, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề, vô
lý; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục
vụ chính sách khai thác thuộc địa.
Về văn hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân,
chúng bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, khuyến
khích văn hóa độc hại, xuyên tạc lịch sử, giá trị văn hóa Việt Nam và dung
túng, duy trì các hủ tục lạc hậu.
- Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay
gắt
Phần lớn giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp ra sức bóc lột
nông dân; một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, đã tham gia đấu tranh chống
Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau. Các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội Việt Nam đều mang thân
phận người dân mất nước và đều bị thực dân áp bức, bóc lột, chèn ép nên đều căm
phẫn thực dân Pháp. Do đó, mẫu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc này,
không chỉ là mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ
và phong kiến, mà đã nảy sinh mâu thuẫn ngày
càng gay gắt giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.
- Các cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh của quần chúng chống
thực dân Pháp xâm lược diễn ra mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại, xã hội Việt Nam
rơi vào khủng hoảng về đường lối cách mạng
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa và các
phong trào đấu tranh của nhân dân ta diễn ra liên tục và mạnh mẽ. Tuy nhiên do
thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong
trào đó đã lần lượt thất bại. Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến như
phong trào Cần Vương đã chấm dứt với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê
do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1896); phong trào nông dân Yên Thế của Hoàng Hoa
Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được thắng lợi. Phong trào yêu nước theo
khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn
Can lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học
lãnh đạo cũng bị thất bại,… Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu
sắc về đường lối cứu nước.
2. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước và chuẩn bị thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam
- Giữa lúc dân tộc ta
đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương
thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911 người thanh niên
Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường
cứu nước theo phương hướng mới. Với khát vọng cháy bỏng giành độc lập tự do cho
dân, cho nước, Nguyễn Tất Thành đã bất chấp mọi nguy hiểm, gian khổ, đi qua
nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã rút ra chân lý: Chủ nghĩa
tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và
nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
- Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6
năm 1919, với tên mới là Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người yêu nước
Việt Nam gửi đến Hội nghị Véc-xây Bản yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm
đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ và quyền bình đẳng
của dân tộc Việt Nam.
- Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin đăng trên
báo Nhân đạo và cũng chính từ đây đã giải đáp cho Người con đường đấu tranh
giành độc lập tự do thực sự cho dân tộc, cho đồng bào mình.
- Từ ngày 25 - 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ
18 Đảng Xã hội Pháp với tư cách đại biểu Đông Dương. Kết thúc Đại hội ngày
30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tán thành thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành
một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và cũng là người Cộng sản
đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
- Từ năm 1921 - 1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong
Đảng Cộng sản Pháp, nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa
tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam. Người tập trung chuẩn bị về tổ chức và cán bộ, lập ra Hội
Việt Nam cách mạng Thanh niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại
Quảng Châu, Trung Quốc, đồng thời gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương
Đông (Liên Xô) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc).
Nhờ hoạt động không mệt mỏi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều
đồng chí cách mạng tiền bối mà đến cuối năm 1929, đầu năm 1930, những điều kiện
cho sự ra đời của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.
3. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, ngày 17/6/1929,
Kỳ Bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng tại
Hà Nội. Tháng 11/1929, các đồng chí Tổng bộ và Kỳ Bộ Nam Kỳ của Hội Việt Nam
cách mạng Thanh niên quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng. Ngày
1/1/1930, những đại biểu ưu tú của Tân Việt cách mạng Đảng (một tổ chức tiền
thân của Đảng) đã họp và thành lập Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn ở
Trung Kỳ. Tuy
nhiên ở một nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về
lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động. Trách
nhiệm lịch sử là phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất, chấm dứt tình trạng
chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam.
- Từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng
sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông
(Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế
Cộng sản. Trong Hội nghị thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm
lớn cần thảo luận và thống nhất, trước hết là tự phê bình và phê bình, “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp
tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”. Hội nghị đã nhất
trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng
sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của
đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi
đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị
áp bức, bóc lột nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng
và sách lược vắn tắt của Đảng phản ánh nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa
như Đại hội thành lập Đảng.
- Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã
quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
4. Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên
đã mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc lập
dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác
định được những nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng
được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết
thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.
- Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô
cùng quan trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của
dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong
trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển
và thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi
mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sỹ tiên
phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng
tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách
mạng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng
chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới,
đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng
góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ
của nhân loại trên thế giới.
II. NHỮNG MỐC SON CHÓI LỌI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRÊN CHẶNG ĐƯỜNG
93 NĂM VINH QUANG CỦA ĐẢNG
1. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945)
Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền với 3 cao
trào cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám
năm 1945. Đó là:
- Cao trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là
phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh: Làm rung chuyển chế độ thống trị của đế quốc
Pháp và tay sai. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng cách
mạng đã vùng dậy trừng trị bọn cường hào, phản động, tay sai thực dân Pháp,
thành lập chính quyền cách mạng ở một số nơi theo hình thức Xô Viết. Cao
trào cách mạng 1930 - 1931 đã khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam do Ðảng
đề ra là đúng đắn và để lại những bài học quý báu về xây dựng liên minh công -
nông, về xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, về phát động phong trào quần
chúng đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền.
- Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ
(1936 - 1939): Bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng
đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân
chủ; quần chúng được giác ngộ về chính trị và trở thành lực lượng chính trị
hùng hậu của cách mạng; Đảng đã tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm trong
việc xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần
chúng đấu tranh công khai, hợp pháp...
- Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945) dưới sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết của
Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng với sự đoàn kết hăng hái, chiến
đấu ngoan cường và hy sinh to lớn của biết bao đảng viên cộng sản, chiến sĩ và
đồng bào yêu nước đã kết thúc thắng lợi bằng cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phá tan sự thống trị
của thực dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ phong kiến đè nặng lên nhân dân
ta mấy mươi thế kỉ, mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam
bước sang kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm
chủ xã hội. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Khái quát ý nghĩa
lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và Nhân dân
Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi
khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng
của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành
công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
2. Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất
nước (1945 - 1975)
2.1. Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, toàn quốc kháng
chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945 - 1954)
- Trong những năm 1945 - 1946, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh lãnh đạo xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân, bầu cử Quốc
hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (6/1/1946); xây dựng và thông qua Hiến pháp
dân chủ đầu tiên (9/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của
nhân dân, chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống
thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả nước;
kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả
Cách mạng tháng Tám; đồng thời thực hành sách lược khôn khéo, đưa cách mạng
vượt qua những thử thách hiểm nghèo. Đảng đã chủ động chuẩn bị những điều kiện
cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên phạm
vi cả nước.
- Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của
thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến
với quyết tâm: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất
định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Bằng đường lối
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời
tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân
ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp giành thắng lợi
mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”,
buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ chấm dứt sự thống trị của
thực dân Pháp ở nước ta.
2.2. Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc (1954 - 1975)
- Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền
Bắc hoàn toàn giải phóng, nhân dân ta bắt tay vào xây dựng, khôi phục kinh tế -
văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó ở miền Nam, đế quốc Mỹ phá
hoại Hiệp định Giơnevơ, hất chân thực dân Pháp, biến miền Nam thành thuộc địa
kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Nhiệm vụ của Đảng ta trong giai đoạn này
hết sức nặng nề, đó là phải lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến hành đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược gồm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
- Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, thực
hiện đường lối chiến tranh nhân dân bằng tầm cao khoa học và nghệ thuật. Với
một đế quốc hùng mạnh bậc nhất thế giới, Đảng ta chủ trương đánh lâu dài; kết
hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và hoạt động binh vận; kết hợp
tiến công và nổi dậy, tiến hành đấu tranh trên cả ba vùng (đồng bằng, thành thị
và miền núi); kết hợp mặt trận quân sự, chính trị với mặt trận ngoại giao; phát
huy cao độ chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh thời đại. Bằng đường lối lãnh đạo
đúng đắn, sáng suốt và tinh thần đấu tranh anh dũng kiên cường, bất khuất, bất
chấp mọi gian khổ hy sinh của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ to lớn của các
nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, Đảng đã
lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của
đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Ðây là một trong những trang chói lọi nhất của
lịch sử dân tộc, là một sự kiện có tầm quốc tế và có tính thời đại sâu sắc.
- Song song với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã lãnh
đạo nhân dân miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế - xã
hội, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Sau 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã giành được những thành
tựu quan trọng, chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu cho chủ nghĩa xã hội;
vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức người, sức của, hoàn thành vai trò
hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam.
3. Thời kỳ tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước, thực
hiện công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1975 đến nay
3.1. Từ năm 1975 đến năm 1986
- Sau chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đất
nước ta gặp muôn vàn khó khăn, Đảng đã lãnh đạo nhân dân vừa ra sức khôi phục
kinh tế vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc và
Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; đồng thời tập
trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước hình
thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân lao động. Tuy nhiên, việc duy trì lâu dài mô hình, cơ chế kinh tế
tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm;
việc hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có
nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm
đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng
ta đã tổng kết thực tiễn, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới, ban hành Nghị
quyết số 21-NQ/TW ngày 20/9/1979 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) về “Phương hướng nhiệm vụ phát triển công nghiệp
hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương”; Chỉ thị 100-CT/TW ngày
13/1/1981 của Ban Bí thư về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản
phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”;
Quyết định 25/QĐ-CP ngày 21/1/1981 của Chính phủ về đổi mới quản lý kinh tế
quốc doanh; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa V (tháng 6/1985) thừa nhận
sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa; Kết luận của Bộ
Chính trị (tháng 8/1986) về 3 quan điểm kinh tế trong tình hình mới...
3.2. Từ năm 1986 đến nay
- Trên cơ sở đánh giá tình hình đất nước và qua quá trình tìm tòi,
khảo nghiệm, Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đưa ra đường lối đổi mới
toàn diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
- Trước bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp
đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đại hội VII
của Đảng (tháng 6/1991) khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các
lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp và giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định những quan điểm và phương
hướng phát triển đất nước, khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
- Các nghị quyết của Đảng từ Đại hội VIII đến
nay tiếp tục khẳng định sự kiên định, kiên trì thực hiện đường lối đổi mới đất
nước và hội nhập quốc tế. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong
tình hình mới không ngừng được bổ sung và phát triển. Ðảng
Cộng sản Việt Nam từng bước hoàn thiện và cụ thể hóa toàn diện các định hướng
đổi mới, phát triển, xác định rõ trọng tâm trong từng giai đoạn. Ban Chấp hành
Trung ương Ðảng các khóa đã ban hành nhiều nghị quyết về những vấn đề quan trọng;
lãnh đạo để Quốc hội không ngừng bổ sung, hoàn thiện, thể chế hóa Hiến pháp, hệ
thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý ngày càng đồng bộ, phù hợp cho quá trình đổi
mới; lãnh đạo Chính phủ cụ thể hóa thành các cơ chế, chính sách và giải pháp
quản lý, quản trị phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.
- Qua gần 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và 35 năm thực hiện
đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, với sự nỗ lực của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử. Đất nước ta vượt qua khủng hoảng kinh tế đã trở thành nước đang
phát triển có thu nhập trung bình; đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Văn hóa - xã hội có bước
phát triển, công tác xóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu quan trọng,
sớm đạt được nhiều chỉ tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, được
quốc tế đánh giá cao. Diện mạo đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay
đổi. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Sức mạnh
về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày
càng đi vào chiều sâu, Việt Nam đã có quan hệ với 189 quốc gia và vùng lãnh
thổ. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Ðại đoàn kết
toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ
thống chính trị được đẩy mạnh. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang đạt được một số
kết quả tích cực. Số lượng đảng viên không ngừng
gia tăng. Từ Đại hội lần thứ I (1935) Đảng ta có khoảng 500 đảng viên đến Đại
hội lần thứ XII (2016) Đảng ta có hơn 4,5 triệu đảng viên. Đa số cán bộ, đảng
viên và Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới
và triển vọng phát triển của đất nước. Nhiều đảng viên đã để lại nhiều tấm
gương tốt thể hiện tinh thần tiên phong và tính gương mẫu.
- Những thành tựu qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước
đã tạo đà cho sự phát triển trong những năm tiếp theo; đồng thời cũng là minh
chứng sinh động khẳng định vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta.
4. Những bài học kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 90 năm qua,
Đảng ta đã tích lũy và đúc rút được nhiều bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, nắm vững
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh
quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai
sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có
quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những
thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và
nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết
với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất
khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của
Đảng.
Ba là, không ngừng
củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn
dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn
sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công.
Bốn là, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao
tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại
lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm là, sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ,
nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức
giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương
của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng
và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái
hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.
III. PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG VẺ VANG, TÍCH CỰC XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG
SẠCH VỮNG MẠNH, ĐẤT NƯỚC NGÀY CÀNG GIÀU ĐẸP
1. Những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xây dựng nên nhiều
truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp.
Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi
ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Chỉ có đi theo con đường cách mạng mà Đảng ta và Bác Hồ đã lựa chọn thì
cách mạng Việt Nam mới giành được thắng lợi trọn vẹn, đất nước ta mới thật sự
được độc lập; dân tộc ta mới thật sự được tự do; nhân dân ta mới có cuộc sống
ngày càng ấm no, hạnh phúc.
Đó là truyền thống giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững,
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tham khảo kinh nghiệm của
quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ
cách mạng. Trong mỗi giai đoạn, Đảng ta luôn thấm nhuần quan điểm chân lý
là cụ thể, cách mạng là sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam để xác
định phương hướng, nhiệm vụ, phương pháp của cách mạng Việt Nam.
Đó là truyền thống gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân, luôn luôn
lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu. Nhân dân ta đã nuôi
dưỡng và bảo vệ Đảng từ những ngày còn trứng nước, hết lòng tin yêu Đảng, ủng
hộ và ra sức phấn đấu thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Sức mạnh vô tận
của nhân dân làm nên sức mạnh vô địch của Đảng; nguồn gốc sức mạnh của Đảng là
ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân.
Đó là truyền thống đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt
chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình
thương yêu đồng chí. Trải qua những thử thách khắc nghiệt trong nhà tù đế quốc,
trước lưỡi lê, họng súng của kẻ thù hay trên chiến trường lửa đạn, những người
cộng sản Việt Nam đã nêu những tấm gương sáng ngời về tinh thần đoàn kết gắn
bó, thương yêu nhau; về tình đồng chí, đồng đội. Chính tình nghĩa cộng sản đó
đã gắn kết những người cách mạng Việt Nam thành một đội tiên phong gang thép
được nhân dân tin yêu, bạn bè ngưỡng mộ, kẻ thù khiếp sợ; tạo thành sức mạnh để
Đảng ta vượt qua mọi thử thách, hy sinh, giữ vững niềm tin và giương cao ngọn
cờ lãnh đạo.
Đó là truyền thống đoàn kết quốc tế thuỷ chung, trong sáng dựa trên
những nguyên tắc và mục tiêu cao cả. Đây là cơ sở vững chắc để Đảng ta hình
thành và thực hiện thành công đường lối đối ngoại đúng đắn qua các thời kỳ,
phát huy đến đỉnh cao sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đưa
cách mạng Việt Nam liên tục phát triển.
Những truyền thống quý báu của Đảng ta là sự kế thừa và phát huy
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp
công nhân quốc tế trên một tầm cao mới của thời đại; là sức mạnh bảo đảm vai
trò lãnh đạo của Đảng; là kết quả của quá trình vun trồng, xây đắp bền bỉ, là
sự hy sinh xương máu, phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ, đảng viên.
Những truyền thống ấy của Đảng có ý nghĩa dân tộc và ý nghĩa quốc
tế sâu sắc, thể hiện tinh thần cách mạng triệt để. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng
đã nắm bắt đúng xu thế phát triển của thời đại, gắn phong trào cách mạng Việt
Nam với phong trào cách mạng thế giới, giải quyết đúng đắn vấn đề độc lập dân
tộc với chủ nghĩa xã hội. Trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam,
Đảng ta đã không ngừng đưa ra những quyết sách phù hợp, đáp ứng yêu cầu lịch
sử, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa nước nhà đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
2. Tích cực xây dựng Đảng ta trong sạch,
vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xây dựng đất nước
ngày càng giàu đẹp, văn minh
Những thắng lợi vĩ đại trong 93 năm qua kể từ ngày có Đảng lãnh đạo
là minh chứng sinh động nhất về năng lực lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng
và sức mạnh to lớn của Nhân dân ta. Đảng đã không ngừng tự đổi mới, đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ cách mạng trước bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp.
Đảng ta đã dành không ít thời gian và công sức cho công tác xây dựng Đảng, coi
xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, được đặt ra trong nhiều nghị quyết, chỉ
thị của Đảng.
Đến nay, công tác xây dựng Đảng đã đạt được những chuyển biến tích
cực và kinh nghiệm quan trọng. Bản lĩnh chính trị, trình độ, năng lực lãnh đạo
của Đảng ngày càng được nâng lên; Đảng luôn
vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức trong bối cảnh trong nước, khu
vực, thế giới có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường và có những
quyết sách phù hợp để chỉ đạo xử lý kịp thời, hiệu quả. Bản chất, lập trường giai
cấp công nhân của Đảng được giữ vững. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức đảng, cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt và
người đứng đầu các cấp từng bước được nâng lên. Tinh thần tự phê bình và phê
bình của cán bộ, đảng viên có tiến bộ; việc ngăn chặn, xử lý tiêu cực, sai
phạm, thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí có chuyển biến rõ nét.
Tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân, ý thức trách nhiệm của cán bộ đối với công
việc được giao được nâng lên, góp phần khắc phục một bước tình trạng suy thoái
về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên. Niềm tin của cán bộ và các tầng lớp nhân dân đối với Đảng ngày càng
được củng cố và nâng cao.
Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng vẫn còn nhiều việc phải làm, nhất
là việc đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống;
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”; tệ tham nhũng, lãng phí, quan
liêu, xa dân... Các thế lực thù địch vẫn đang tìm mọi cách phá hoại sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta; chúng ra sức xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước ta,
đánh thẳng vào hệ tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng, kích
động, chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân, hòng làm tan rã
Đảng ta, chế độ ta từ gốc, từ bên trong, hết sức thâm độc và nguy hiểm.
Trong tình hình ấy, chúng ta càng cần phải tập trung làm tốt hơn
nữa công tác xây dựng Đảng. Đại hội XIII của Đảng đã xác định phương hướng công
tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ là: Tiếp tục kiên định, vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới của Đảng, hết lòng,
hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực
lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản
lý của Nhà nước. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng.
Kết luận số 21-KL/TW, Hội nghị Trung ương 4
khoá XIII xác định mục tiêu: Đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ
thống chính trị nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến
đấu của Đảng; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước; đổi mới nội dung,
phương thức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Kiên quyết đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”;
kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa “xây” và “chống”, “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài;
“chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thường xuyên. Tạo bước phát triển mới
của Đảng về trí tuệ, bản lĩnh chính trị, thực sự là đạo đức, là văn minh, ngày
càng gắn bó mật thiết với nhân dân, ngày càng được nhân dân tin tưởng; đủ uy
tín và năng lực lãnh đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Tự hào với những thắng lợi đã đạt được, hướng
tới tương lai tươi sáng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn vững tay lái, tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo,
năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng và hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước
phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết
hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
IV. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ
HÌNH THÀNH, NHỮNG THÀNH TỰU VẺ VANG CỦA ĐẢNG BỘ XÃ DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
Ngày 05/4/1946, tại nhà thờ họ Trịnh (xóm 14 nay là xóm 4), Huyện
ủy Xuân Trường đã quyết định thành lập chi bộ Kiên Lao gồm 5 đảng viên . Chi bộ Đảng cộng sản Kiên
Lao được thành lập là một sự kiện chính trị có ý nghĩa to lớn, ghi một dấu son
trong lịch sử đấu trang cách mạnh của nhân dân Kiên Lao, đánh dấu bước trưởng
thành và mở ra một giai đoạn mới của phong trào cách mạng xã nhà. Sau khi được
thành lập chi bộ Đảng cộng sản Kiên Lao đã tích cực xây dựng, củng
cố và phát triển đội ngũ đảng viên từ khi mới thành lập chỉ có 5 đồng chí đảng
viên đến nay Đảng bộ xã có 317 đồng chí đảng viên sinh hoạt tại 10 chi bộ (6
chi bộ nông thôn, 3 chi bộ giáo dục, 1 chi bộ công an).
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, nhân dân Kiên Lao đã tích cực
xây dựng chính quyền và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành
thắng lợi, đồng thời tích cực khắc phục hậu quả của chiến tranh, phát triển
kinh tế - xã hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc chi viện cho miền Nam góp
phần vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước thắng lợi. Thực hiện công cuộc đổi mới đất
nước Đảng bộ và nhân dân Xuân Kiên đã đạt được những thành tích đáng phấn khởi,
được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân trong thời
kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, xã được công nhận xã nông thôn mới
năm 2014, nông thôn mới nâng cao năm 2019, hiện nay đang hoàn thiện hồ sơ trình
cấp có thẩm quyền thẩm định xã đạt nông thôn mới kiểu mẫu.
Thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2022 trong bối cảnh có nhiều thuận lợi và khó khăn
nhất là đại dịch Covid -19 … song dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành
Đảng bộ, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong xã đã có nhiều cố
gắng, khắc phục khó khăn, thực hiện có hiệu quả nhiều nhiệm vụ trọng tâm, hoàn
thành khá toàn diện nhiệm vụ chính trị đề ra: Thực hiện nghiêm việc điều tra
truy vết các đối tượng liên quan đến dịch bệnh Covid-19, tổ chức chiến dịch
tiêm chủng mùa Xuân thực hiện phòng chống dịch bệnh Covid-19, hoàn thành
việc sáp nhập, đổi tên xóm; chỉ định kiện toàn lại đội ngũ cán bộ cơ sở xóm sau
sáp nhập; Chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức Đại hội chi bộ cơ sở trực thuộc Đảng ủy
nhiệm kỳ 2022 - 2025, bầu cử trưởng xóm nhiệm kỳ 2021 - 2026, Ban công tác Mặt
trận, Ban Thanh tra nhân dân các cơ sở xóm theo quy định. Lãnh đạo, chỉ đạo tổ
chức thành công Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Đại hội đại biểu Hội
Cựu Chiến binh xã nhiệm kỳ 2022 - 2027. Thực hiện các quy trình để rà soát, bổ
sung quy hoạch cán bộ nhiệm kỳ 2020 - 2025, xây dựng quy hoạch cán bộ nhiệm kỳ
2025 - 2030, quy trình bầu, chỉ định bổ sung ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ,
kiện toàn bầu bổ sung chức danh Phó chủ tịch UBND xã theo quy định, triển khai
việc thực hiện Đề án thu gom, phân loại xử lý rác thải tại hộ gia đình, 6/6 xóm
được công nhận khu dân cư nông thôn kiểu mẫu, Đảng bộ được công nhận là Đảng bộ
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu biểu, chính quyền được công nhận là chính
quyền vững mạnh, MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội được xếp loại tiên tiến,
xuất sắc.
Kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, phát huy
truyền thống quê hương anh hùng, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Xuân Kiên
quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức, xây dựng quê hương Xuân Kiên ngày thêm
giàu đẹp, văn minh./.
ĐẢNG ỦY XÃ XUÂN KIÊN