HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 97 NĂM NGÀY BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM ( 21/6/1925 - 21/6/2022)
Bác Hồ với tờ báo làm công tác địch vận
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất
quan tâm đến công tác địch vận. Năm 1948, Người nói: “Đánh mà thắng địch là
giỏi. Không đánh mà thắng địch càng giỏi hơn. Không đánh mà thắng là nhờ địch
vận”. Do đó, Người đã rất quan tâm đến tờ báo “Bạn chiến đấu” (Waffenbrüder) -
một tờ báo được viết bằng tiếng Đức và tiếng Pháp do Đảng và Nhà nước ta chỉ
đạo cho ông Erwin Borchers (người Đức, lính lê dương Pháp bỏ ngũ về với ta)
thực hiện, dùng để kêu gọi những người lính lê dương từ bỏ con đường phục vụ
cho thực dân Pháp.
|
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh: Tư liệu lịch sử
|
Vì
sao có tờ báo “Bạn chiến đấu”?
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai
(1939-1945), nước Pháp không che giấu tham vọng trở lại Đông Dương. Tuy nhiên,
do tiềm lực quân sự của Pháp bị Đức Quốc xã phá hủy trong thời gian bị chiếm
đóng (1941-1944) nên nước này đã sử dụng đến lính lê dương bên cạnh quân đội
Pháp và lính từ các thuộc địa Bắc Phi.
Lính lê dương là những người nước ngoài
đánh thuê cho Pháp. Đội quân này ra đời vào năm 1831 và tồn tại cho đến ngày
hôm nay. Theo thống kê, từ năm 1946 đến năm 1954, 72.833 sĩ quan và binh lính
lê dương đã tham chiến tại chiến trường Đông Dương.
Tuy nhiên, khi thấy được sự ác ôn của
thực dân Pháp, nhiều người lính lê dương đã bỏ ngũ để theo về với Việt Minh.
Năm 1947, Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Pháp Paul Coste Floret đã yêu cầu Chủ tịch
Hồ Chí Minh trao trả những lính lê dương đã đào ngũ và tham gia Việt Minh nhưng
Người khước từ bất chấp mọi lời đe dọa.
Trong số đó có Erwin Borchers (người
Đức), lính lê dương Pháp gia nhập Việt Minh sớm nhất từ năm 1945. Sau khi gia
nhập Việt Minh, ông tham gia công tác tại tờ báo “Dân chúng” (Le Peuple) xuất
bản bằng tiếng Pháp với nội dung phục vụ cho công tác địch vận.
Sau đó, khi Kháng chiến toàn quốc bùng
nổ (19/12/1946), ông phụ trách công tác địch vận với đối tượng chủ yếu là lính
lê dương gốc Đức và các lính lê dương gốc Châu Âu. Vì số người Đức trong đội
quân lê dương Pháp lên đến hàng vạn nên Đảng và Nhà nước ta chỉ đạo ông và các
cộng sự tiến hành viết bài, ấn hành tờ báo “Bạn chiến đấu” (Waffenbrüder) bằng
tiếng Đức và tiếng Pháp.
Thực hiện chỉ thị của cấp trên, ông đã
viết nhiều bài cho tờ báo với bút danh “Chiến sĩ”. Báo in ra liền được giao cho
du kích mang rải xung quanh đồn địch để kêu gọi các người lính lê dương gốc Đức
và kể cả các người lính lê dương có nguồn gốc Châu Âu từ bỏ con đường phục vụ
cho thực dân Pháp.
Thư
gửi báo “Bạn chiến đấu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
|
Báo
“Bạn chiến đấu” (Waffenbrüder). Ảnh: Tư liệu lịch sử
|
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chia sẻ: “Kinh
nghiệm của tôi thế này: Mỗi khi viết một bài báo, thì tự đặt câu hỏi: Viết cho
ai xem? Viết để làm gì? Viết thế nào cho phổ thông dễ hiểu, ngắn gọn dễ đọc?
Khi viết xong, thì nhờ anh em xem và sửa giùm”[1] và Người nhấn mạnh “Nhiệm vụ
của báo chí là phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng”[2].
Để góp ý kiến về hình thức và nội dung
nhằm giúp tờ báo “Bạn chiến đấu” có thể tranh thủ được cảm tình của độc giả là
những người lính lê dương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi báo “Bạn chiến
đấu” (10/2/1948). Trong bức thư, Người viết:
“Các
bạn thân mến,
Rất
cảm ơn các bạn về những số báo của Bạn chiến đấu. Đây là một vài ý kiến nhỏ đề
nghị với các bạn: tờ báo này dành cho những người lính lê dương, những chàng
trai vui tính, dễ cáu kỉnh, dễ cảm xúc chứ không phải là những người làm chính
trị sâu sắc.
Bởi
vậy, cần có những bức tranh, những bức vẽ khôi hài, những gì làm cho họ vui
cười, những tin tức ngắn về nước Đức và nước Pháp – đặc biệt là những tin tức
có liên quan đến đời sống của nhân dân (như không đủ lương thực tiếp tế, đình
công, sự phiền nhiễu của các cơ quan cai trị…).
Nói
tóm lại, cần làm cho họ cảm động, thoải mái, làm cho họ cười và khóc để lôi
cuốn họ về phía chúng ta.
Không
nên viết những bài dài.
Không
nên viết những vấn đề chính trị lớn đương thời.
Các
bạn nghĩ thế nào?”
Sau đó vài tháng, phóng viên báo “Bạn
chiến đấu” đã có cuộc phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh. Báo “Cứu quốc” số 938
ngày 25/5/1948 chi nhánh số 6 in tại Liên khu X đã đăng lại bài trả lời của
Người.
- Hỏi: Thưa
Chủ tịch, Chủ tịch ghét gì nhất?
- Trả lời: Ðiều
ác.
- Hỏi: Chủ
tịch cầu mong gì nhất?
- Trả lời: Nền
độc lập của nước tôi và của tất cả các nước trên hoàn cầu.
- Hỏi: Thưa
Chủ tịch, Chủ tịch sợ cái gì nhất?
- Trả lời: Chẳng
sợ cái gì cả. Một người yêu nước không sợ gì hết và nhất thiết không được sợ gì.
Năm 1950, báo “Bạn chiến đấu” đổi tên
thành báo “Trở về” để tăng cường kêu gọi các người lính lê dương từ bỏ con
đường phục vụ cho thực dân Pháp. Năm 1951, Hội nghị Địch vận phổ biến phương châm
vận động lính Âu - Phi tranh đấu là “đòi hồi hương và hòa bình ở Việt Nam”, coi
đó là khẩu hiệu trung tâm.
Do đó, theo thống kê, trong kháng chiến
chống thực dân Pháp (1946-1954), 1.373 lính lê dương và 288 lính Pháp bỏ ngũ
sang với Việt Minh. Nhiều người trong số đó đã có những đóng góp không nhỏ
trong các ngành chỉ huy, tham mưu, kỹ thuật, huấn luyện, quân y, quân giới,
tuyên truyền... của cách mạng ta.
Cuối tháng 2/1954, ông Erwin Borchers
đến Điện Biên Phủ cùng đội tuyên truyền địch vận của ông. Họ đã thả truyền đơn
và dùng loa kêu gọi các lính lê dương cũng như các đơn vị lính Bắc Phi hạ vũ
khí.
Với chiến thắng Điện Biên Phủ
(7/5/1954), cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp sau đó kết thúc thắng lợi. Các
tờ báo lớn nhất thế giới đồng loạt đưa tin về thắng lợi “vang vọng năm châu,
chấn động địa cầu” này. Trong đó, tạp chí Time của Mỹ số ra ngày 22/11/1954
viết rằng đây là “chiến công của một quân đội một nước châu Á đánh bại những kẻ
từng là “ông chủ” của họ từ châu Âu tới”.
“Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, lực
lượng Việt Minh đã có được một quân đội chiến đấu trong rừng có hiệu quả nhất
Đông Nam Á, có vị tướng tài ba nhất Đông Nam Á là Võ Nguyên Giáp, có một tổ
chức chính trị vững chắc nhất do Hồ Chí Minh đứng đầu và có trình độ lãnh đạo
lão luyện” – tạp chí Time nhận định tiếp.
Đồng chí William Foster, Chủ tịch Đảng
Cộng sản Mỹ, đã viết trên “Công nhân nhật báo” ra ngày 10/5/1954 như sau: “Quân
đội Hồ Chí Minh phá tan được tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là một sự kiện có ý
nghĩa rất lớn. Thất bại này không những chỉ là thất bại thảm hại của riêng thực
dân Pháp, một kẻ đã cố liều mạng để âm mưu xâm chiếm đất nước Đông Dương giàu
đẹp mà trước hết là thất bại lớn lao của kế hoạch chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ,… Thắng lợi ở Điện Biên Phủ là một sự cổ vũ vô cùng to lớn cho các lực
lượng đang đấu tranh chống lại chủ nghĩa đế quốc ở các nước thuộc địa và nửa
thuộc địa, đồng thời sự phát triển ở Đông Dương trong giai đoạn gần đây đã thúc
đẩy và làm tăng cường phản kháng các chính sách khống chế tàn bạo của Mỹ ở các
nước tư bản khác…”.
|
Ông
Erwin Borchers (người Đức), lính lê dương Pháp gia nhập Việt Minh sớm nhất từ
năm 1945. Ông và các đồng chí của mình đã làm báo “Bạn chiến đấu”
(Waffenbrüder) để vận động lính lê dương Pháp về với hàng ngũ Việt Minh trong
kháng chiến chống Pháp.
|
Những
người lính lê dương Pháp trở thành Chiến sĩ “Việt Nam mới”
Chiến sĩ “Việt Nam mới” là những người
nước ngoài tình nguyện tham gia hàng ngũ Quân đội Nhân dân Việt Nam trong cuộc
đấu tranh giành độc lập dân tộc. Trong số đó có cả những người lính lê dương
Pháp bỏ ngũ về với cách mạng. Dưới đây là hai chiến sĩ “Việt Nam mới” tiêu biểu.
|
Ông
Kostas Sarantidis tức Nguyễn Văn Lập - Anh hùng Lực vũ trang nhân dân (áo
trắng) cùng đồng đội xưa ở Liên khu V chụp ảnh lưu niệm với Phó Thủ tướng Vũ
Đức Đam. Ảnh: Tư liệu lịch sử.
|
Ông Kostas Sarantidis
(Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân):
|
Ông
Kostas Sarantidis (bên phải) cùng đồng đội trong hàng ngũ “Bộ đội Cụ Hồ”.
Ảnh: Tư liệu lịch sử.
|
Từ một lính lê dương từng tin vào lời
lừa phỉnh của bọn thực dân Pháp rằng sang Đông Dương để “giải phóng” các xứ ở
đây khỏi phát xít Nhật, vào tháng 6/1946, ông Kostas Sarantidis (sinh năm 1927
tại Hy Lạp) đã đi theo về hàng ngũ “Bộ đội Cụ Hồ”.
Sau này, ông nhớ lại: “Sang đến nơi mới
biết bị lừa. Chả thấy người Nhật đâu. Thay vào đó là được lệnh đi bắn nhau với
Việt Minh! Chúng tôi là người dân từng bị đô hộ gần 400 năm, từ người trẻ đến
già có ai muốn đánh nhau, đi xâm chiếm ai đâu”.
Trong kháng chiến chống Pháp
(1946-1954), với tên Việt Nam là Nguyễn Văn Lập, ông được Đảng và Nhà nước ta
giao làm nhiều công việc trong các đơn vị quân chính quy Liên khu 5, có mặt
trong nhiều trận chiến đấu ác liệt ở miền Trung.
Khi được điều về làm tổng giám thị Trại
tù binh Âu Phi số 3 ở Quảng Ngãi, ông đã làm tốt công tác giáo dục, làm cho họ
hiểu rõ chính nghĩa của Việt Nam chống xâm lược và chính sách nhân đạo của
chính phủ kháng chiến.
Ba năm sau khi tham gia kháng chiến
chống Pháp, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau hiệp nghị Genève
năm 1954, ông tập kết ra miền Bắc làm Trung đội trưởng Trung đội cung tiêu ở
sân bay Gia Lập, làm lái xe tải ở các mỏ than Na Dương, mỏ thiếc Cao Bằng, làm
phiên dịch cho chuyên gia Cộng hòa dân chủ Đức ở Nhà máy in Tiến Bộ.
Năm 1965, ông cùng gia đình trở về Hy
Lạp, nơi ông còn có một mẹ già đang sống. Ông tham gia Đảng Cộng sản Hy Lạp và
hoạt động vun đắp mối quan hệ Hy Lạp – Việt Nam. Năm 2013, ông được Đảng và Nhà
nước ta tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.
Ông Stefan Kubiak
(người vinh dự mang họ Bác Hồ):
|
Stefan
Kubiak (người Ba Lan), Đại uý Quân đội Nhân dân Việt Nam Hồ Chí Toán. Trước
đó ông từng là lính lê dương Pháp bỏ ngũ sang với Việt Minh. Ảnh: Tư liệu
lịch sử
|
Từ hàng ngũ lính lê dương Pháp, ông Stefan
Kubiak (sinh năm 1923, người Ba Lan) đã đứng trong hàng ngũ “Bộ đội Cụ Hồ” khi
nhận ra bản chất ác ôn của thực dân Pháp.
Sau khi về với cách mạng, ông được phân công
phụ trách một đơn vị pháo. Với những tính toán chính xác, ông đã cùng đơn vị
lập được nhiều chiến công. Với những đóng góp của mình vì sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc Việt Nam, ông được vinh dự mang họ Bác Hồ: Hồ Chí Toán.
Sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi
(7/5/1954), ông phục vụ một thời gian nữa trong quân đội rồi chuyển công tác
sang báo Quân đội nhân dân và Đài tiếng nói Việt Nam. Ông mất năm 1963 tại Hà
Nội.
Nguồn Theo Báo Nghệ An